Tulip Châu Sa
THIÊN NGA TRẮNG
Truyện ngắn Hoài Bảo
Tulip ơi!
Lâu qua rồi vì nhiều lý do mà mình chưa viết thư cho bạn. Mong bạn thông cảm và đừng giận Bảo nhé.
Tulip! Hình như những người ít nhiều dính dáng đến viết lách đều bị vận vào người những điều khiến ta trăn trở. Nhiều lúc mình tự lý giải và thử đi tìm nguyên nhân xem sao. Có phải chăng vì tâm hồn chúng ta quá nhạy cảm với mọi biến động xung quanh, nội tâm chúng ta quá dạt dào cảm xúc mà chúng ta phải “bị” chịu tác động mạnh hơn những người khác. Cái may mắn cho người cầm bút như chúng ta là có thể viết ra được, thương những người chỉ biết cam chịu mà không thể nói ra (viết ra) những điều uất nghẹn trong tim…
Tulip! Bảo luôn tin rằng bạn sẽ vững vàng và đủ nghị lực để đi trên con đường mình đã chọn, cho dù con đường đó còn nhiều chông gai phía trước. Chính mình cũng đang tự khích lệ mình để cố gắng đi hết con đường còn lại trong cỏi nhân sinh này. Mỗi người có cách riêng để tự vượt qua những khó khăn bằng ĐỨC TIN, bằng LÒNG ĐAM MÊ và QUẢ CẢM. Cố gắng lên nhé Tulip! Mong bạn luôn nhớ rằng bên cạnh bạn vẫn còn có nhiều người tốt yêu thương, tôn trọng bạn và nghĩ về bạn luôn luôn.
Tulip! Kèm theo thư này truyện ngắn của Bảo đã công bố trên tạp chí Lang Bian hồi tháng 9. Tulip đọc giải trí cho vui nhé!
Chúc Bạn luôn yêu đời!
Hoài Bảo.
Tulip: Những hệ lụy đau khổ! Cuộc sống còn vô vàn những người chịu khổ, chịu nhục vì sự vô tâm, vô cảm đến độc ác của những kẻ hư hỏng đắp lên số phận vốn nghiệp ngã càng thêm nghiệt ngã như Thiên Nga. Vâng! Chắc chắn Thiên Nga đã về bên Chúa và giờ này Thiên Nga đang trong vòng tay Chúa Yêu Thương!
Tôi gặp em trong một dịp hè về thăm chị gái sau những năm học bù đầu. Từ ngày về trọ học ở thành phố tính ra đã được ba năm rồi, thành phố nơi tôi trọ học chỉ cách nơi chị ở hơn trăm cây số chớ có nhiều nhặn gì, vậy mà mãi ba năm sau tôi mới sắp xếp về thăm chị. Thật ra trong những ngày hè ấy tôi phải tất bật tìm việc làm thêm để có tiền trang trải cho việc học. Các anh em tôi ai cũng thế. Cha mẹ ở quê đâu có đủ điều kiện để chu cấp cho anh em chúng tôi ăn học dù chỉ là mức tối thiểu. Vì thế mà tôi lần lữa mãi đến mùa hè năm ấy mới về thăm chị. Phải mất hơn tiếng đồng hồ đi bộ từ quốc lộ, băng qua một cánh đồng rộng lớn mới đến được nhà chị gái. Từ nhỏ ở quê Miền trung đất hẹp người đông toàn nhìn những mảnh vườn nhỏ xíu, mấy năm học ở thành phố ra đường toàn người và xe, nhìn đâu cũng đối diện với bê tông. Giờ được phóng tầm mắt trên cánh đồng rộng lớn thật choán ngợp vô cùng. Mùa này lúa đang thời con gái nên nhìn đâu cũng một màu xanh mát mắt.
Ở đây, trên cánh Đồng Lớn này người ta chỉ làm lúa một vụ bằng giống lúa sáu tháng. Tháng giêng tháng hai cày đất, tháng tư tháng năm đợi mưa xuống cho thấm đất thì gieo hạt. Lúa cứ thế tranh nhau cùng cỏ dại mà vương lên, tháng bảy tháng tám trời mưa dầm nước sông La Ngà dâng lên tràng ngập cả cánh đồng, lúa nương theo nước vương lên. Nước lụt ngâm có khi cả tháng trời cỏ dại không thể sống nổi, vì thế người trồng lúa ở đây không cần phải làm cỏ gì cả. Nước rút để lại trên mặt ruộng một lớp phù sa bồi bổ cho cây lúa thay phân. Đến tháng mười tháng mười một lúa chín, cả cánh đồng nhộm một màu vàng óng của những bông lúa chắc mẫy, no tròn. Một qui trình trồng lúa nghe như giởn chơi vậy mà có thiệt, ăn thiệt.
Nhà chị tôi ở gần bến sông, kiểu nhà cao cẳng giống như nhà sàn đồng bào dân tộc ở miền núi nhưng sàn nhà khá cao để tránh lụt. Cột sàn được làm bằng lỏi gỗ trắc trăm năm không mục, sàn nhà lát bằng gỗ Bằng lăng đã lên nước bóng láng, bốn vách được thưng bằng những tấm lá buông. Trông xa ngôi nhà như một tổ chim câu nổi bật trên một màu xanh bạc ngàng của lúa. Mấy ngày ở thăm chơi nhà chị tôi thả sức khám phá đủ các trò, các thú vui đồng nội. Hết bẫy chim, bẫy chuột đến câu cá, đặt lờ. Thích nhất là chiều chiều xách cần câu ra bến sông ngồi câu cá hóng mát, chán rồi thì ngâm mình xuống dòng sông mát rượi mà tắm táp. Dòng sông La Ngà đoạn này khá bằng phẳng nên nước chảy em dịu, hiền hòa. Bên kia sông là nhà bà chủ bến đò và vài ba căn nhà nhỏ của những người làm rau được cất trên một nổng đất cao. Dưới bến lúc nào cũng có dăm ba chiếc xuồng của những người vạn chài nằm im lìm phơi nắng. Đa phần họ ngủ ban ngày, làm việc ban đêm.
Từ nhà chị, muốn ra sông phải đi qua một bãi bồi thoai thoải. Tôi tình cờ gặp em trong một chiều lang thang trên bến với chiếc cần câu như một người nhàng hạ. Hôm đó em đang lúi húi dưới bến rữa rau chuẩn bị cho bữa cơm tối. Thấy tôi lân la đến làm quen lúc đầu em hơi cảnh giác nhưng sau thấy tôi nhiệt tình hỏi đủ điều em buộc phải trả lời. Em hỏi:
– Anh là người thành phố mới đến phải không?
– Không! Tui ở Miền trung. Thành phố chỉ là nơi tui trọ học. Tui về đây chơi thăm chị gái – Tôi thật thà đính chính.
– Tui biết rồi – Em đáp.
Thì ra em đã biết tôi tới đây mấy hôm rồi. Ở đây chỉ có mấy nóc nhà, việc có mặt một người lạ làm sao qua mặt được mọi người. Tôi vừa nói chuyện vừa nhìn em nhặt rau. Bàn tay nỏ nhắn hơi gầy, nước da em không trắng lắm. Đặc biệt là đôi mắt, đôi mắt em hơi buồn nhưng có một sự cuống hút kỳ lạ. Thú thật thì em không đẹp nhưng ẩn chứa trong một vóc dáng hơi gầy là một sức sống mảnh liệt của một cô gái tuổi mười sáu, mười bảy. Nhìn em đưa chân khoát nước khi bước trên cầu ván lên xuồng, bàn chân em nhỏ nhắn không khoáy động nỗi mặt sông. Tự nhiên trong tôi trào dâng một cảm xúc khác lạ, khó tả.
Những ngày sau đó, cứ chiều đến là tôi lại vát cần câu xuống bến. Đi câu chỉ là cái cớ, gặp để nói chuyện cùng em mới là cái chính. Bị gì tôi không phải là một tay sát cá, mười lần đi câu thì gì cũng có tám chín lần về không. Tôi thì cứ lẻo đẻo xách cần trên bờ theo em, còn em thì một mình với chiếc xuồng Bom(1) nhỏ xíu, đôi dầm bơi cũng nhỏ xíu khoáy nước nhẹ tênh dưới sông. Cứ chiều đến em ra sông trên chiếc xuồng nhỏ đó thả lưới, thả lưới xong em tìm một vũng nước xoáy ngồi trên xuồng câu cá. Còn tôi đi theo ngồi cho hỏ trên bờ. Tôi nói xuống, em nói lên cứ thế mà huyên thuyên đủ chuyện trên trời dưới đất. Nhiều lúc nhìn em trên chiếc xuồng nhỏ xíu lênh đênh trên mặt nước tự nhiên tôi nhớ đến trò chơi cho kiến đi thuyền lá của tuổi thơ trong những mùa nước lụt.
Từ ngày quen em chiều nào tôi cũng lên xuồng em vừa trò chuyên vừa nhìn em chuẩn bị bữa cơm tối. Không biết sao tự nhiên tôi thấy em gần gủi quá chừng. Ngồi với em trong khoan thuyền chật hẹp, mùi khói bếp cay nồng, nghe cá đớp nước dưới mạng thuyền thấy lòng thư thái vô cùng. Mọi bon chen phố thị giờ tan biến đâu hết. Tôi tự hỏi mình hay là tôi đã yêu em. Yêu một người con gái hiền lành và chân chất. Chân chất như chính cuộc sống của những người vạn chài lấy ngày làm đêm, lấy thuyền làm nhà, lấy sông nước làm quê hương này.
Em sống với người cha nuôi. Năm ấy ông cũng đã lớn tuổi rồi nhưng vẫn sống đơn độc một mình trên sông nước. Trong một đêm lênh đênh trên sông, ông bỗng nghe tiếng khóc trên bờ. Lần lữa một hồi, tò mò ông mạnh dạn chèo thuyền vào bờ nơi có tiếng khóc. Ông bất ngờ nhận ra trên bãi sông, dưới ánh đèn dầu của ông là một đưa trẻ sơ sinh bị ai đó bỏ rơi. Đứa bé được quấn cẩn thận trong một chiếc khăn có thêu hình cặp Thiên nga đang âu yếm nhau. Vì thế sau này ông đặt tên con là Thiên Nga. Nhặt được đứa bé ông mừng hơn được của. Mấy ngày sau đó người ta thấy ông ôm đứa bé chèo thuyền đi khắp nơi dưới bến, trên bờ để xin sữa cho con. Từ bé em đã theo cha trôi nổi trên sông, hai cha con nương nhau mà sống lấy thuyền làm nhà. Câu chuyện này cha đã kể cho em nghe không biết bao nhiêu lần. Cuộc sống sông nước mong manh, bất trắc, bạc bẻo lắm. Vì thế ông không muốn giữ lấy câu chuyện này trong lòng mà làm gì, vã lại em cũng đã đủ lớn để biết những điều cần biết.
Cha em ít khi ở trên xuồng, ngoại trừ khi ngủ còn lại thì ông lênh đênh trên sông hoặc lên bến dạo chơi, uống trà với những người trồng rau trên đó. Sau này biết em tên Nga, có lần tôi đã nói với em: “- Thiên Nga tên em đẹp như chính con người em vậy.” Em không nói gì chỉ nhìn tôi miễm cười, nụ cười hình như phản phất một chút buồn, một chút chua xót.
Hàng ngày nghe em đùa giỡn với lũ trẻ trên bến sông. Tiếng cười vô tư trong trẻo của em như loan toả khắp mặt sông. Tôi thềm quá, ước gì tiếng cười đó em dành cho tôi. Tại sao chưa bao giờ em dành cho tôi những tiếng cười như vậy. Tôi đâm ra ích kỷ tự bao giờ chẵn biết. Tôi ghét những đứa nhỏ làng chài lúc nào cũng quẩn quanh bên Nga. Tôi muốn một mình với em, nhưng thế nào khi thấy tôi xuống xuồng thì ba bốn đứa nhỏ xuồng bên cũng chạy qua. Chúng quấn quít, bày ra đủ trò kéo tôi vào chơi. Hình như chúng thiếu người, thèm người lắm thì phải. Lúc đầu tôi cảm thấy khó chịu khi lũ nhỏ kéo đến. Nhưng sau thấy chúng hồn nhiên, dể gần, một điều chị Nga, hai điều chị Nga khiến tôi cũng thấy thương thương. Tôi bắt đầu nhập cuộc nhiệt tình trong các trò chơi của chúng. Chúng lôi đâu trong góc xuồng ra một bộ bài toàn những quân bài cũ mềm, cũ mềm như những bộ quần áo chúng đang mặc trên người. Hết nhìn bộ bài đến nhìn lũ nhỏ mà tôi muốn rơi nước mắt quá chừng. Một đứa lớn, hình như mạnh dạng nhất trong bọn bày trò ảo thuật. Chúng yêu cầu tôi chọn một quân bài xem kỷ rồi bỏ lại vào bộ bài xóc kỹ. Vậy mà chúng cũng tìm ra đúng lá bài đó. Tôi thử lại nhiều lần nhưng chúng đều tìm ra đúng phốc. Tôi phục quá tấm tắc khen mãi làm chúng khoái chí. Nga ngồi bên khuôn mặt rạng rỡ hẳn lên.
– Nga cũng làm được trò này – Nga nói.
– Vậy Nga chỉ cho tôi với nhé! – Tôi đề nghị.
– Chị Nga không được chỉ đâu đấy! – Bọn trẻ nhao nhao.
– Ừ thì chị không chỉ.
Vậy mà mấy hôm sau Nga đã lén bọn trẻ chỉ cho tôi bí quyết đó và nó đã theo tôi suốt đến giờ.
Chủ nhật nào, dù mưa hay nắng Nga cũng đều dậy từ ba giờ sáng để đi Thị trấn. Ở đó có nhà thờ, Nga đến đó để đi lễ và xưng tội trước Chúa. Có lần tôi đã nói đùa Nga:
– Nga làm gì có tội mà xưng tội.
Nga nhìn tôi nguýt dài:
– Đã sinh ra làm con của Chúa thì ít nhiều gì cũng có tội, không lớn thì nhỏ thôi. Chỉ sợ mình không nhìn thấy được tội lỗi của mình.
Tôi hơi chột dạ. Thì ra Nga cũng là một con chiêng ngoan đạo. Từ đó tôi không đùa với Nga về vấn đề này. Tôi tôn trọng tín ngưỡng của mọi người, nhất là đối với Nga.
Ngày tôi trở lại thành phố nhập học Nga đã đưa tôi qua sông bằng chính chiếc xuông Bom nhỏ bé ngày nào Nga vẫn thường dùng câu cá mỗi chiều. Ngồi bên em trên chiếc xuồng mong manh nhưng sao tôi thấy dòng sông hôm nay dường như hẹp quá. Tôi không muốn sang bờ bên kia. Sang bờ là đồng nghĩa tôi phải xa em một thời gian dài, chắc là tôi sẽ nhớ em nhiều lắm. Trước khi chia tay tôi còn nói với theo em:
– Nga ở lại mạnh giỏi, hè sang năm tôi lại về gặp Nga, Nga nhé!
Nga nhìn theo tôi gật đầu. Tôi có cảm giác em không tin mấy hay là không hy vọng vào ngày tôi trở lại để nói với em điều mà đáng ra tôi phải nói mấy ngày nay rồi thì phải.
Trên đường trở lại Thành phố tôi cứ băn khoăn trách mình mãi. Tại sao tôi không nói thật lòng mình với em rằng tôi đã yêu em. Biết đâu chừng em sẽ nhận lời yêu tôi và chờ đợi ngày tôi trở lại. Nhưng mà đâu có được, tôi còn phải tiếp tục học để ra trường, phải có một việc làm nuôi sống mình, để trả hiếu cho cha mẹ nữa chứ. Thật là con nít quá đi mất. Nhưng không nói yêu em liệu ngày trở về em đã theo chồng rồi thì sao đây. Hay là về Thành phố viết thư cho em. Nhưng viết thư thì gửi thế nào trong khi em không có một địa chỉ rõ ràng nào cả, giữa đồng không mông quạnh thế này ai là người mang thư đến cho em.
Về đến thành phố tôi lao đầu vào việc học. Cuối năm học đó sau khi tốt nghiệp, cầm tấm bằng trong tay tôi chạy đi gõ cửa nhiều nơi, nhiều cơ quan cuối cùng tôi cũng tìm được cho mình một chổ làm tạn ổn. Xong việc thì cũng đã tháng mười một âm lịch. Tranh thủ trong khi chờ vào làm việc chính thức sau tết âm lịch. Tôi quyết định về gặp lại em, sau đó sẽ về quê báo công cùng ba mẹ, họ hàng và gặp gỡ bạn bè sau chừng ấy năm lo dùi mài kinh sử.
Mấy ngày rồi trong đầu tôi không lúc nào vắng hình bóng em. Nỗi nhớ em sau bao ngày kìm nén giờ được dịp tung hoành, cào cấu tôi. Tôi định bụng sẽ nói hết nỗi lòng của mình nếu em chấp nhận tôi sẽ đưa em về thành phố. Ở đó có đường lớn, nhà to, xe đẹp chắc là em sẽ thích lắm. Tôi sẽ đưa em đi chơi vườn hoa, sở thú, công viên cho em mở mang tầm mắt. Rồi chúng tôi sẽ cưới nhau, chúng tôi sẽ dành dụm tiền để mua xe máy chở em đi làm. Được đi xe máy chắc em sẽ vui mừng lắm đây. Thôi thì muôn ngàn viễn cảnh tốt đẹp được vẻ ra trong đầu tôi.
Xuống xe từ quốc lộ trời cũng đã gần trưa. Hơn tiếng nữa tôi sẽ về đến nhà chị, sau đó sẽ được gặp lại em vào buổi chiều, chắc là em sẽ mừng lắm đây. Đồng mùa này lúa vừa gặt xong chỉ còn trơ lại những gốc rạ xơ xác. Xa xa những đụn khói đốt đồng bay bay trong nắng buổi trưa khiến cho cảnh vật thêm tiêu điều. Một mình đi giữa cánh đồng bao la không một bóng người mới thấy mình nhỏ bé, đơn độc vô cùng. Từng luồn gió thổi qua nóng rát. Hai bên đường những bụi lau sậy khô vàng xơ xác ngã mình từng hồi trong gió nóng.
Về đến nhà chị cũng đã quá trưa. Vội vã tắm rửa qua loa cho sạch bụi đường. Cơm trưa chị cũng đã dọn lên thôi thì phải ngồi ăn cho chị vui mà trong lòng như có lửa đốt. Vừa ăn chị vừa hỏi thăm đủ thứ. Đợi chị ngớt câu chuyện tôi mới hỏi thăm chị về Nga.
– Cậu hỏi Nga hả? Nga si đa chứ gì? Sao cậu biết nó?
– Dạ thì Nga có hai cha con ở ngoài bến sông đó chị. Mùa hè trước em về có quen Nga. Ừ mà sao chị lại nói Nga si đa?
– Ừ thì nó chứ ai. Cậu không biết chứ ở đây ai mà không biết con nhỏ đó nó bị si đa.
Tôi nghe mà chết điến, cố vớt vát lại chút hy vọng yếu ớt:
– Chị nói sao ấy chứ! Có nhầm không đó vậy? Con bé đó còn nhỏ tí nị mà si da si điết nỗi gì.
– Thế mới khổ chứ cậu.
Tôi ngồi như pho tượng nghe chị kể đầu đuôi. Nga vốn từ nhỏ đã ốm yếu, vẹt vẹo, năm Nga mười bốn tuổi bất ngờ một cơn bạo bệnh đến với Nga. Chấm cha Nga phải đưa Nga lên bờ chữa chạy cho con. Tại bệnh viện người ta làm các xét nghiệm thời mới tá hoả phát hiện Nga đang mang trong mình thứ vi rút chết người đó. Tìm mọi nguyên nhân dẫn đến việc Nga bị nhiễm HIV. Các bác sĩ bước đầu đi đến kết luận có thể Nga bị nhiễm vi rút từ mẹ truyền sang trong khi mang thai. Như vậy là mọi điều đã rõ. Ông già Nga đã chân yếu lưng còng giờ lại còng hơn vì sự bất hạnh của con và cũng là nỗi bất hạnh của ông. Hai con người, một già một trẻ, không biết chắc ai đã khổ hơn ai đó lại dắc díu nhau về sống trên chiếc xuồng cũ như cậu biết đấy.
– Thế bây giờ Nga sống ra sao?
– Nó chết rồi.
Tôi bậc dậy như một chiếc lò so trong tư thế bị nén lâu ngày:
– Nga chết rồi? Chết khi nào? Tại sao chết? Không lẽ chết vì si đa? – Tôi thật sự mất bình tĩnh.
Chị chép miệng, thở dài:
– Tội nghiệp con nhỏ, con nhỏ ngoan hiền quá mà chết thảm quá. – Dừng một lúc chị kể tiếp – Năm ngoái sau khi em đi đâu chừng vài tháng thì Nga mất. Ngày đó mới đầu mùa lũ mà không biết sao trời mưa to quá, nước sông cứ dâng lên liên tục bất thường. Mấy người đi buôn sợ ướt hàng nên tranh nhau lên đò. Đò nặng ngổn ngang khoai, sắn lại gặp lúc gió to nên khi ra giữa dòng thì bị chìm. Mấy người vạn chài gần đó, trong đó có Nga ai nấy lo cứu người, mấy người khách buôn may mắn thoát nạn. Khi cứu xong người cuối cùng thì Nga cũng kiệt sức, Nga chơi vơi giữa dòng rồi mất hút trong dòng nước dử trước sự ngỡ ngàng, bất lực của mọi người. Mấy người còn khoẻ lao xuống cứu Nga nhưng không kịp nữa. Trời mưa mỗi lúc mỗi to, nước sông dâng lên trắng đồng. Mấy chục con người được huy động tìm Nga. Nhưng tìm mãi mấy ngày mà không thấy xác con nhỏ đâu. Tội nghiệp cho ông già nó, chừng đó tuổi rồi sống đơn độc chỉ mong có nó để nương tựa ngày già. Giờ nó mất ổng như cái xác không hồn. Sau bốn năm ngày không tìm thấy xác con ổng về gom hết những gì của nó còn lại gói ghém đào nguyệt chôn, đắp thành nấm mộ nhỏ trên bến để có chổ cho linh hồn con trú ngụ. Xong rồi ổng nhổ sào đi biệt đến giờ. Nghe đâu ổng xuôi theo dòng nước đi tìm xác con, hơn năm rồi mà vẫn biệt tăm, chẳn tin tức gì.
Nghe chị nói mà đầu óc tôi như muốn nổ tung. Tôi không thể nào tin vào những điều chị nói. Tôi thật sự không tin là Nga đã chết. Em như vẫn còn đâu đó để còn nghe những gì tôi sẽ nói với em mà tôi đã chuẩn bị trong mấy ngày qua. Những điều mà đáng ra tôi phải nói với em hơn một năm trước.
Hỏi chị mấy thẻ nhang, tôi mang qua bên kia sông để thắp cho em. Đứng trước mộ em mà tôi như người mất hồn. Dưới nấm mộ kia không phải thân xác của em mà chỉ là những kỷ vật của em còn lại mà thôi. Không biết dưới đó có còn bộ bài cũ mền mà ngày xưa tôi và em cùng nhau chơi bài trong những chiều chạng vạng. Ngày đó có lần tôi đã cố tình cầm lấy tay em hơi lâu, tôi cảm nhận được bàn tay nhỏ bé đang run lên trong lòng tay tôi. Tôi muốn dang đôi tay rắn chắc của mình để che chở cho em quá chừng. Thế mà tôi đã không dám làm điều đó và đến giờ này thì tôi đã mãi mãi không bao giờ thực hiện được.
Vừa thắp nhang cho em tôi vừa đứng lặn nhìn về phía cuối dòng sông, nơi có hình bóng em đang lẩn khuất đâu đó. Dòng sông mùa này nước cạn, nước vẫn hiền hòa trôi một cách vô tình. Trời chiều ráng đỏ rắt xuống mặt sông như nhộm máu. Từ đám lau sậy trước mặt, bất chợt một cánh chim trời lẻ loi bay lên, chao liệng mấy vòng trên mặt sông rồi vụt bay mất hút về phía chân trời đỏ ối. Có phải là em đó không Thiên Nga? Em linh thiêng ở trên trời chắc thấu hiểu lòng anh. Anh cầu mong cho em giờ này được sống an bình trên đất Chúa. Được sống trong vòng tay yêu thương, chở che của đức Chúa trên trời. Thiên Nga của anh, anh tin rằng em là người xứng đáng như vậy.
Tháng 7/ 2013
(1)Xuồng Bom: là loại xuồng nhỏ được gò bằng tôn hoặc Đê-ra trông giống như nửa quả bom, chỉ dùng cho một hoặc hai người đi. Đây là phương tiện chính dùng để đi lại, đi câu và đánh lưới của người dân vạn chài. Trên một xuồng lớn thường có nhiều xuồng Bom tuỳ theo số thành viên trên xuồng.
Hồ Minh Hoài Bảo. ĐC: UBND xã Đạ M’ri, Đạ Huoai, Lâm Đồng. ĐT: 0975403327.